PHẦN 2:  – PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ ÁNH SÁNG

1. Phương pháp thiết kế tổng quát:

1.1) Giới thiệu về phương pháp thiết kế ánh sáng:


Có hay không chỉ có một phương pháp thiết kế cho ánh sáng sân khấu - có rất nhiều. Hay nói một cách khác, quy tắc đầu tiên của ánh sáng sân khấu là không có gì bất kỳ. Miễn là các mục tiêu đáp ứng được việc thiết kế và những khái niệm ánh sáng, thiết kế có thể xử dụng bất kỳ kỹ thuật THIẾT KẾ thích hợp nào mà bạn muốn.


Tuy nhiên, người thiết kế ánh sáng chuyên nghiệp phải làm sao để truyền đạt thiết kế của mình cho người khác, thông qua việc xử dụng các tiêu chuẩn công ước. Mỗi chương trình có nhu cầu ánh sáng rất khác nhau. Ánh sáng cho một chương trình múa của 'Annie' với Martha Graham đều có phong cách và các yêu cầu hoàn toàn khác nhau. Học viên ánh sáng không phải tìm kiếm một “hệ thống” hay “phương pháp” để thực hiện cho tất cả các nhu cầu ánh sáng.

Không chỉ có một. Thay vào đó, người thiết kế ánh sáng phải hiểu được nhu cầu của từng ngành, nghề sản xuất cụ thể, cẩn thận xác định và sau đó thực hiện việc thiết kế ánh sáng cho phù hợp. Chỉ trong cách tiếp cận này, các thiết kế ánh sáng có hiệu quả nhất phù hợp với nhu cầu chính xác của chương trình. Không bao giờ có hai chương trình nào giống nhau và cũng không bao giờ có hai thiết kế ánh sáng nào thực hiện như nhau.

1.2) Tầm nhìn & tâm trạng:

Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất của ánh sáng sân khấu là vẫn là TẦM NHÌN. Điều này có lẽ cũng đúng cho các người thiết kế ánh sáng trước đây, xử dụng nến, đèn dầu, ánh sáng khí đốt và điện hồ quang. Thông thường, các người thiết kế chiếu sáng diễn viên đầu tiên cho tầm nhìn và sau đó cho tâm trạng và thứ ba là không khí. Đôi khi tâm trạng có thể chế ngự khả năng của tầm nhìn (ít nhất là tạm thời).

Hiện nay nhiều người thiết kế cho buổi hòa nhạc có thể đầu tiên chiếu sáng sân khấu cho tâm trạng và tác động và sau đó cho tầm nhìn. Về mặt này, có nhiều loại ánh sáng tổng quát có thể bao gồm: màu sắc mạnh, máy chiếu, hay các kỹ xảo chuyển động. Xử dụng followspot hay các thiết bị ánh sáng tự động, người thiết kế có thể “cắt” thông qua ánh sáng tâm trạng và cho vào bộ điều khiển ánh sáng, chính xác cho người biểu diễn, bất cứ vị trí nào trên sân khấu.

1.3) Tiến trình của phương pháp và trang thiêt bị:

Hầu hết các phương pháp ánh sáng đã tiến hóa từ nguồn ánh sáng và công nghệ thiết bị ánh sáng. Thiết bị Spotlight hiện nay cung cấp cho người thiết kế chùm tia hẹp khoảng 10-40 độ. Điều này không phải luôn luôn như vậy. Gần 100 năm trước đây, hầu hết ánh sáng bao gồm duy nhất của ánh sáng tỏa (flood), spot hẹp như vậy đã không tồn tại. Với sự phát triển của spotlime (ánh sáng vôi, hồ quang điện, sau đó đèn đốt tim), phương pháp thiết kế ánh sáng đã thay đổi. Bây giờ nó đã có thể cho ra ánh sáng chính xác địa điểm và định vị, tại bất cứ nơi nào trên sân khấu. Khi thiết bị tiếp tục phát triển, phương pháp thiết kế ánh sáng cũng vậy. Với thiết bị tự động thế hệ mới, ánh sáng mới không bao giờ nhìn thấy trước đây - hiện nay thì có thể.

2. Phương pháp nguồn đơn:

2.1) Phương pháp nguồn đơn:

Một người thiết kế có thể muốn có ánh sáng trên toàn bộ sân khấu với một nguồn ánh sáng duy nhất như ánh sáng mặt trời hay mặt trăng chiếu sáng trái đất, gây ra sự thúc đẩy mạnh mẽ việc định hướng ánh sáng, vì chỉ có một bóng duy nhất. Điều này là hiếm trên thực tế tuy nhiên lại bất khả thi đối với một số lý do.

Trước tiên, có rất ít thiết bị ánh sáng công suất cao có khả năng chiếu sáng toàn bộ sân khấu. Thông thường một thiết bị 10.000 watt hay hơn sẽ được yêu cầu cung cấp ánh sáng đến một khu vực nhỏ của sân khấu. Thứ hai, một thiết bị lớn duy nhất sẽ không kiểm soát hoàn toàn được và sẽ không chỉ chiếu sáng khu vực diễn xuất, nhưng còn là ở chung quanh sân khấu, hai cánh gà và có lẽ đến cả một số khán giả. Thứ ba, nếu nguồn (điểm) ánh sáng thật sự duy nhất để 'thực hiện được', nguồn phải có một khoảng cách rất lớn. Điều này hiếm khi có thể có trong hầu hết các nhà hát thông thường.

Trong tự nhiên, điểm nguồn của ánh sáng có một khoảng cách để chiếu xuống rất lớn. Giả sử ánh nắng mặt trời là một thiết bị ánh sáng và di chuyển cho là 25 feet đi. Ánh sáng rọi xuống ra sao không đáng chú ý. Bạn hầu như không thể di chuyển ra từ nguồn ở tất cả các chỗ khác. Bây giờ tưởng tượng thiết bị ánh sáng sân khấu duy nhất, cho là 100 feet từ sân khấu. Một diễn viên có thể di chuyển ngắn lại 25 ft từ nguồn. Họ đã di chuyển một khoảng cách lớn hơn nhiều trong mối quan hệ giữa nguồn và ánh sáng rọi xuống sẽ rất đáng chú ý. Điều này là do tính chất định luật bình phương nghịch đảo của ánh sáng. Khoảng cách xa hơn từ nguồn, mức độ ánh sáng càng giảm nhanh chóng. Nói chung là không thể tìm thấy vị trí lắp đặt thích hợp trong hầu hết các nhà hát cho nguồn ánh sáng duy nhất và kết quả là, kỹ thuật nhiều thiết bị thường được xử dụng để thay thế.

2.1) Bóng hậu:

Ngoài ra còn có một khái niệm về ánh sáng quan trọng liên quan từ kích cỡ của một nguồn đến độ sắc nét bóng hậu của nó. Nói chung, nguồn nhỏ hơn, bóng sắc hơn. Ngược lại, nguồn lớn hơn, bóng mờ hơn. Thí dụ, tại cùng một khoảng cách một thiết bị ánh sáng với một ống kính có đường kính 6 inch sẽ tạo ra một cái bóng sắc nét hơn so với một thiết bị với nguồn đường kính 36 inch (chẳng hạn như: đèn scoop, hộp đèn hay hộp đèn flood). Cũng như vậy, khoảng cách đến nguồn được thực hiện để tăng độ sắc của bóng hậu.

Mặc dù toàn bộ ánh sáng cho chương trình sân khấu với một nguồn duy nhất của ánh sáng thường không thực tế, ánh sáng nguồn đơn có cách dùng của nó. Thường thì nó có thể xử dụng ánh sáng nguồn đơn rất ấn tượng, cách điệu hay "hiệu ứng” ánh sáng khá cần thiết cho một cảnh cụ thể. Có thể ánh sáng cho toàn bộ khung cảnh chỉ từ một nguồn đơn như ánh sáng từ một đèn bàn hay từ một cánh cửa tủ lạnh mở, tuy nhiên điều quan trọng ở đây là cần lưu ý rằng có thể dễ dàng làm các khán giả thấy mệt mỏi.

3. Phương pháp nguồn điểm (POINT SOURCE):

3.1) Ánh sáng nguồn điểm:

Hầu hết các thiết bị thực hiện ánh sáng sân khấu là nguồn “điểm”. Trong khía cạnh này, nó tạo ra một bóng duy nhất và nó cung cấp một số lượng ánh sáng theo định luật bình phương nghịch đảo. Thí dụ, một thiết bị ánh sáng cách 50 feet có thể cung cấp 100 footcandles. Nếu khoảng cách tăng gấp đôi lên 100 feet, chỉ cung cấp được 25 footcandles (1 / 4).

Ánh sáng nguồn điểm là dạng thức gốc cơ bản của tất cả các thiết kế ánh sáng sân khấu. Các thành phần cơ bản của tất cả các thiết kế ánh sáng bao gồm ánh sáng MẶT TIỀN (FRONT), MẶT HẬU (BACK), DƯỚI (DOWN), XÉO (DIAONAL), CẠNH (SIDE) và TRÊN (UP) (và tất cả mọi thứ gì ở giữa). Những người thiết kế đôi khi sẽ xử dụng các nguồn đơn cơ bản một mình, nhưng họ thường sẽ kết hợp lại. Không có gì là ấn tượng hơn so với một mẩu múa hiện đại, ánh sáng chỉ với một series đèn chiếu sáng cô lập chiếu xuống hay một đèn hậu chiếu xéo, đối đầu là ánh sáng đèn cyclorama. Không gì mệt mỏi và nhàm chán hơn là xem một vở kịch tình cảm được chiếu sáng với một series đèn tight pool (nhiều đèn chiếu chan hòa).

Các học viên thiết kế phải nhận thức để biết được các thuật ngữ ánh sáng MẶT TIỀN (FRONT), MẶT HẬU (BACK), DƯỚI (DOWN), XÉO (DIAONAL), CẠNH (SIDE) và TRÊN (UP) thật tốt. Họ nên thử nghiệm trong một nhà hát thực tế với các loại thiết bị khác nhau được lắp đặt vào các vị trí này. Họ nên cố gắng thử nhiều góc độ khác nhau và chiếu sáng nhiều loại phông nền, cảnh quan và thậm chí các diễn viên khác nhau. Trường hợp làm chủ được các nguồn đơn cơ bản, nên kết hợp hai hay nhiều góc độ ánh sáng trên một khu vực duy nhất. Đây là một bài tập rất quan trọng và các dạng thức cơ sở cho tất cả các thiết kế ánh sáng.

Ngoài ra còn có một số sách về ánh sáng có chứa nghiên cứu hình ảnh ánh sáng của các nguồn cơ bản (tiền, hậu, cạnh, v.v) ánh sáng trên một ma-nơ-canh hay một diễn viên. Một trong các sách nghiên cứu tốt là Jean Rosenthal trong cuốn “The Magic of Light". Những hình ảnh cho thấy một số thiết bị ánh sáng được gắn tại các vị trí chiếu sáng điển hình của nhà hát. Nghiên cứu này có chứa các bức ảnh tuyệt vời, biểu hiện (rendering) và bản vẽ của nhiều thí dụ khác nhau. Ngoài ra còn có một số sơ đồ ánh sáng bao gồm các loại hình và cách bố trí các thiết bị đã xử dụng.

4. Phương pháp đa nguồn:

4.1) Ánh sáng đa thiết bị (MULTI-FIXTURE):

Ngày nay, hầu hết các thiết kế sân khấu và ánh sáng giải trí xử dụng phương pháp ánh sáng nhiều thiết bị hầu như trái ngược với phương pháp nguồn đơn hay điểm. Điều này cho phép người thiết kế có toàn quyền kiểm soát ánh sáng, ở bất cứ nơi nào trên sân khấu, liên quan đến cường độ, định hướng, phân phối, màu sắc và dịch chuyển.

Phương pháp đa thiết bị xử dụng nhiều loại loại thiết bị và rất nhiều các kỹ thuật ánh sáng. Ngày nay, hầu hết các thiết bị đều dùng bóng đèn volfram-halogen “có thể dim được (dimmable)” làm nguồn sáng. Sau đó, loại bóng mới H.I.D, (high instensity discharge) tìm đường len lỏi vào các ứng dụng ánh sáng sân khấu. Hiện nay, nó rất phổ biến để tích hợp cả thiết bị ánh sáng thông thường với thế hệ mới, kết quả cho ra thiết kế ánh sáng tinh tế và đơn giản, không bao giờ có trước đây. Điều này không phải là bất thường đối với một nhà hát, phòng hòa nhạc hiện đại, xử dụng đến 400-500 thiết bị ánh sáng cho một chương trình duy nhất. Lý tưởng nhất là mỗi thiết bị ánh sáng sẽ có điều khiển dimmer riêng cho nó. Trong những phương tiện cũ với một số lượng dimmer giới hạn, đôi khi nó cần thiết để có thể “cắm-plug” hay “vápatch” một số thiết bị vào một dimmer.

Nhiều thiết kế ánh sáng thường sẽ cố gắng chỉ xử dụng thiết bị cụ thể cho những cảnh (scene) cụ thể. Một số người thiết kế có thể thiết kế một “sơ đồ tổng quát” nhằm mục đích để làm việc với tất cả các scene tốt như nhau. Tuy nhiên các người thiết kế khác sẽ xử dụng một sự kết hợp của thiết bị cho “tổng quát” và “scene cụ thể”. Cách tiếp cận chính xác thường sẽ được quyết định bởi các thiết bị có sẵn, vị trí gắn, thời gian và ngân sách. Thông thường người thiết kế đã chuẩn bị để treo một số thiết bị cần thiết cho thiết kế của họ, và thêm một vài phụ tùng. Người thiết kế khác, không thực sự chắc chắn về những gì đã làm, có thể xử dụng cách tiếp cận “giấu đuôi của bạn – cover your tail” và treo một thiết bị trong từng vị trí có thể gắn được mà nhà hát sẽ cho phép. (Chỉ trong trường hợp này) Những thiết kế này có thể làm cho thiết kế 400 thiết bị giống như một thiết kế cố định 120 thiết bị, một cách dễ dàng.

Thiết bị ánh sáng thông thường luôn luôn treo trên 18 inch (feet?-ND) (hay hơn). Ống tube dài 30 ft điển hình sẽ gắn được tổng cộng 20 thiết bị.

5. Phương pháp MCCANDLESS:

5.1) Phương pháp MCCANDLESS:

Mặc dù có thể không có “một” phương pháp thiết kế ánh sáng nào, Tuy nhiên, lại có một cách tiếp cận có hệ thống đã được đề xuất bởi Stanley McCandless (Đại học Yale School of Drama 1925-1964). Đây là cách tiếp cận làm nền tảng cho thiết kế ánh sáng sân khấu hiện đại hiện nay.

5.2) Ánh sáng khu vực diễn xuất:

McCandless đề xuất rằng việc thiết lập sân khấu được chia thành một số KHU VỰC DIỄN XUẤT, mỗi khu vực hai (2) thiết bị. Thiết bị ánh sáng được bố trí trên cao như đèn chiếu sáng mặt tiền treo góc khoảng 90 độ đến khu vực. Thêm các thiết bị được bố trí ở khoảng 45 độ theo chiều ngang. Tiếp theo, McCandless đề nghị mỗi đèn có một bộ lọc màu khác nhau, một 'ấm-warm' từ một bên, một 'lạnh-cool' từ bên kia. Mỗi khu vực cũng được (lý tưởng) điều khiển bằng dimmer riêng. Một sân khấu “mở-open” sẽ được chia thành 9 khu vực (nhiều hơn hay ít hơn tùy theo yêu cầu), có đường kính 8-12 ft. Khu vực có thể được sắp xếp, 3 sân khấu thấp (downstage), 3 sân khấu giữa (centerstage) và 3 sân khấu cao (upstage). Hai thiết bị trang bị TẦM NHÌN cho diễn viên. Các điều khiển dimmer cho phép các khu vực sẽ tối hay sáng khi cần thiết, cung cấp TIÊU ĐIỂM CHỌN LỌC, BỐ CỤC và TÂM TRẠNG cho bức tranh toàn thể sân khấu. Vị trí của hai thiết bị, cho phép một diễn viên “chơi-play” dù bên phải hay bên trái của mình, và vẫn nằm trong trong một ánh sáng “KHÓA-KEY”. Góc giữa những thiết bị cung cấp tính tạo hình tuyệt vời và hình thành đến khuôn mặt người. Màu sắc đối lập nhau ấm áp và lạnh giúp đỡ trong việc cung cấp sự quan tâm, độ tương phản và ánh sáng tự nhiên.

5.3) Pha trộn (BLENDING) và hòa hợp (TONING):

Ánh sáng cho các diễn viên đầu tiên cho khả năng hiển thị, sau đó ánh sáng môi trường chung quanh riêng cho tâm trạng và không khí, là cách tiếp cận của McCandless. Đôi khi cần thiết không có ánh sáng bổ sung, để "bung ra-flare” từ các khu vực diễn xuất và chiếu sáng các bức tường của một thiết lập. Cách khác, cảnh quan có thể cần ánh sáng WASH hay FLOOD để giúp tích hợp và pha trộn nó thành hình ảnh ánh sáng toàn bộ.

5.4) Hình nền (BACKGROUND) và Phông nền (BACKDROP):

Hình nền, vải nền, phông nền và màn vây (cycloramas), tất cả nên được chiếu sáng một cách riêng biệt từ diễn viên và cảnh quan.

5.5) Nhấn mạnh & đặc biệt:

McCandless đề nghị thêm những thiết bị (nếu cần thiết):
(A) để cung cấp khu vực “diễn xuất đặc biệt" (cửa ra vào, đồ gỗ nội thất, v.v).
(B) để cung cấp động lực (ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh lửa).
(C) để cung cấp máy chiếu hay các hiệu ứng.

6. Ánh sáng khu vực:

6.1) Ánh sáng khu vực:

Thông thường, tất cả các ánh sáng sân khấu đã thực hiện với ánh sáng cho một nghệ sĩ biểu diễn (vũ công, diễn viên, nhạc công, v.v). Người biểu diễn có khuynh hướng làm việc trong những KHU VỰC. Đây là một điều tốt, bởi vì hầu hết các ánh sáng đèn spotlight sân khấu có khuynh hướng cung cấp ánh sáng các khu vực
đã xác định hay loang tỏa ra. Thông thường, các yếu tố đầu tiên của thiết kế ánh sáng, là ÁNH SÁNG KHU VỰC DIỄN XUẤT (ACTING). Đôi khi được gọi là ánh sáng “chìa khóa-key”, ánh sáng này cung cấp khả năng hiển thị cho người biểu diễn trên diện tích theo từng khu vực. Diện tích ánh sáng khi xử dụng với bộ điều khiển dimmer, cũng cung cấp một phương pháp có giá trị để cô lập hay nhấn mạnh một nghệ sĩ biểu diễn trong bất kỳ khu vực nào trên sân khấu. Ngoài ra, thiết kế khu vực ánh sáng cũng có thể đóng góp vào bầu không khí, tổng thể, tâm trạng và bố cục của hình ảnh sân khấu.

Điều quan trọng là cho người thiết kế có thể hình dung không gian biểu diễn, trong dạng thức khu vực ánh sáng có tầm nhìn ba chiều. (3D) Các khu vực này liên quan đến kiến trúc và hình học của sân khấu hay việc thiết lập sân khấu. Cách khác, các khu vực này liên quan đến sự hoạt động và ngăn chặn những người biểu diễn.

6.2) Khu vực diễn xuất – Thiết bị (FIXTURE):

PAR và Fresnel spotlight là hai loại đèn đặc biệt phù hợp với nhu cầu của ánh sáng khu vực. Những thiết bị này cung cấp chùm sáng tỏa góc từ 10 - 50 độ và thường có công suất 500-2000 watt.

6.3) Khu vực diễn xuất – Phương pháp:
Thông thường sân khấu chia nhỏ thành một số khu vực, ngang qua mặt tiền, ngang qua giữa sân khấu và trên sân khấu cao. Thông thường có 3 x 3 hay tổng cộng 9 khu vực có thể trang bị cho một thiết lập nhỏ. Là 9 khu vực rộng x 5 khu vực chiều sâu, có thể trang bị cho một vở opera lớn, âm nhạc. Một chương trình thật lớn có thể có hơn 100 khu vực.

Lưu ý rằng một số lượng khu vực không đồng đều (3-5-7-9 ...) trên mặt tiền sân khấu đặc biệt hữu ích. Hệ thống này luôn luôn trang bị cho một khu vực trên đường trung tâm - thường xuyên nhất ở nơi một nửa chương trình sẽ diễn ra. Các khu vực ngang 8-12 feet có vẻ hữu ích nhất cho các ứng dụng ánh sáng khu vực sân khấu.

Tuy nhiên chương trình lớn có thể được trang bị tốt hơn với các khu vực ngang 12-20 feet (hay hơn). Khu vực có thể được chiếu sáng với một hay nhiều thiết bị ánh sáng. Thông thường, một khu vực có thể trang bị với một ánh sáng phía trước (frontlight), ánh sáng thấp (downlight), và ánh sáng hậu (backlight) - tùy thuộc vào nhu cầu của chương trình. Khu vực cũng có thể được chiếu sáng với hai (2) thiết bị từ phía trước và có góc 90 độ với nhau (sau thời McCandless). Nguyên tắc mục tiêu của ánh sáng khu vực nên là ánh sáng cho diễn viên và tránh ánh sáng nền. Về mặt này, người thiết kế ánh sáng phải chọn một cách cẩn thận cả hai góc độ và hướng của tất cả các ánh sáng khu vực.

Mặc dù McCandless yêu cầu thiết bị được gắn ở 45 độ theo chiều ngang, ánh sáng hiện đại có khuynh hướng xử dụng góc 45-60 độ (hay hơn) để chiếu sáng khu vực phía trước. Nói chung góc càng cao hơn, 'bóng' và ấn tượng sẽ được chiếu sáng. Góc độ cao hơn khá tốt để ngăn chặn ánh sáng tràn ra vị trí sân khấu cao (upstage). Góc độ ánh sáng thấp hơn tốt cho ánh sáng của mắt và dưới mũ.

7. Hòa hợp & pha trộn:

7.1) Hòa hợp & pha trộn:

Sau khi chiếu sáng diễn viên với ÁNH SÁNG KHU VỰC, có cần thiết hay không để có thể cung cấp ánh sáng bổ sung cho khung cảnh chung quanh. Thông thường, xử dụng ánh sáng đặc biệt để chiếu sáng cảnh quan được gọi là ánh sáng “hòa hợp và pha trộn” vì nó giúp hòa hợp giữa phong cảnh và sự pha trộn với ánh sáng đến khu vực diễn xuất. Đôi khi, thí dụ như khi ánh sáng một vở kịch tình cảm (drama), trong một thiết lập nhỏ, có lẽ chỉ cần có ánh sáng khu vực. Không cần thiết có ánh sáng bổ sung để chiếu sáng các thiết lập. Điều này là do thực tế phản chiếu từ ánh sáng khu vực có thể dội ra khỏi sàn và chiếu sáng các bức tường
trong một cách tự nhiên và thích hợp nhất.

Cách khác, nếu chương trình là một vở kịch hài, thiết lập này có thể cảm thấy bị hơi tối và ảm đạm. Không thành vấn đề, người thiết kế ánh sáng sẽ cố gắng để nâng các đèn chiếu sáng trong khu vực diễn xuất, thiết lập vẫn có vẻ bị tối khi so sánh. Trong trường hợp này, thêm ánh sáng trên các bức tường phía trên của các thiết lập nhỏ có lẽ sẽ cung cấp một tầm nhìn thích hợp.

7.2) Hòa hợp – Pha trộn – Thiết bị:

Hòa hợp và pha trộn ánh sáng, có khuynh hướng xử dụng các loại thiết bị khác nhau, tùy thuộc vào các ứng dụng chiếu sáng chính xác. Spotlight, floodlight và striplights, tất cả đều có chỗ đứng của mình.

7.3) Hòa hợp – Pha trộn – Phương pháp:

Thường thì ánh sáng hòa hợp và pha trộn được cung cấp bởi loại đèn flood soft. Cả hai loại triplight và hộp floodlight cũng phù hợp cho ứng dụng này.

Cách khác, đèn spotlight có thể cung cấp một dạng thức hòa hợp và pha trộn ấn tượng hơn. Cá nhân tôi thích xử dụng các đèn PAR với tiêu điểm mềm (soft focus) phá vỡ các khuôn mẫu để cung cấp một kết cấu hòa hợp và pha trộn chiếu sáng cho mỗi bức tường của thiết lập. Những thiết bị này thường nằm ở một góc khá thấp (box boom), “wash” nhẹ nhàng và hài hòa với phong cảnh là rất cần thiết.

Trong thời điểm đầu những năm 1900 và cho đến năm 1960, ánh sáng hòa hợp và pha trộn thường được cung cấp từ một serie ba (3) hay bốn (4) đèn striplight màu, gắn ở trên sân khấu. Strips (còn gọi là X-ray) chạy từ bến trái sang bến phải sân khấu, và thường được dùng cho; downstage, centerstage và upstage. Một số nhà hát có thể có nhiều đến năm (5) bộ đèn striplight, lắp đặt cố định. Striplight thường được gắn bộ lọc màu bằng thủy tinh hay nhựa trong, đỏ, lục, xanh và hổ phách (amber). Vũ nhạc, nhạc kịch và các chương trình đa dạng, ánh sáng strip đặc biệt hữu ích trong việc cung cấp màu wash. Thời điểm sân khấu có thể được tắm trong một màu xanh ban đêm, tiếp theo là màu hổ phách vào ban ngày. Các các bộ lọc màu nguyên thủy đỏ, lục, xanh, cho phép bất kỳ màu sắc nào cũng được pha trộn ra để cung cấp một màu wash ngay lập tức lên sân khấu, hay phong cảnh bên dưới.

8. Ánh sáng bối cảnh (BACKGROUND):

8.1) Ánh sáng bối cảnh:

Sau khi rọi sáng diễn viên với ÁNH SÁNG KHU VỰC, và sau khi rọi sáng cho thiết lập với ánh sáng hòa hợp và pha trộn, người thiết kế sẽ chiếu sáng riêng biệt mọi bối cảnh. Bối cảnh, thường được thực hiện để có nghĩa là phông nền hay vải nền. Bối cảnh vẽ sơn đã được xử dụng hàng trăm năm trước ở sân khấu nhà hát, opera và múa. Một phông cảnh sơn đúng cách đôi khi có thể truyền tải một cảm giác về chiều sâu vô song bởi phong cảnh 3 chiều.

Ánh sáng bối cảnh cũng bao gồm ánh sáng cho màn vây (cycloramas) lớn đến các mảnh vải sơn thả xuống, từ đỉnh xuyên qua các cửa sổ của một bộ phông cảnh. Một vở opera hay múa ba-lê cách điệu có thể biểu diễn trên một sân khấu mở với màn vây chỉ 30 'x 60' tạo như một bối cảnh. Các chương trình khác có thể dùng 10 hay nhiều hơn khung cảnh sơn vẽ. Đôi khi bối cảnh có thể rất thực tế. Vào thời điểm khác, nó có thể là trừu tượng, siêu thực, ấn tượng, hay cách điệu cao.

8.2) Ánh sáng bối cảnh – THIẾT BỊ:

Thông thường, các phông nền được chiếu sáng với các thiết bị striplight - đôi khi được gọi là XRays, borderlights (đèn viền) hay batten (đèn giàn). Các thiết bị striplight bao gồm một giải chiếu sáng tuyến tính (thường là dài 6-9 ft), với khoang đèn 9-12 ngăn riêng biệt. Các ngăn nối 3 hay 4 mạch, mỗi mạch, có màu sắc theo yêu cầu với các bộ lọc bằng nhựa. Đôi khi dùng ba (3) màu cơ bản (3) (đỏ, lục, xanh), do đó người thiết kế có thể kết hợp cho ra gần như bất kỳ màu nào.

Striplights đã phát triển về cơ bản, như công nghệ bóng đèn đã phát triển, từ xử dụng dầu và nến đầu tiên, sau đó khí sau đó đèn điện đốt tim, với một chóa phản chiếu thô. Một số thiết bị hiện đại xử dụng đèn 'R' hay “PAR”. Một striplight thu nhỏ gọn bằng cách xử dụng bóng đèn MR16 được phát triển trong những năm 1980 và đôi khi được gọi là "dải-Zip”. Mặc dù nhỏ gọn và hiệu quả, sản phẩm này không phải không có vấn đề. Đèn được nối tiếp với (thường là) 10 bóng x 12 volt trên mỗi mạch. Điều này có nghĩa là nếu một đèn “cháy”, toàn bộ mạch đều tắt. Ngoài ra, đèn chỉ công suất tối đa là 75 watt, bóng MR16. Những bóng 75 watt thường có nhiệt độ đủ nóng để gây ra thiệt hại cho hầu hết các ổ cắm bóng đèn, sau một khoảng thời gian. Nếu người thiết kế muốn độ tin cậy, họ buộc phải xử dụng công suất thấp hơn (tức là 42 hay 50 watt). Hộp đèn flood không đối xứng thay thế cho các thiết bị striplight. Thiết bị này có một chóa phản chiếu không đối xứng để 'đẩy' nhiều ánh sáng hơn về phía dưới chân của màn phông. Những thiết bị này cũng có loại thiết bị có ngăn, 1, 2, 3, và 4 ngăn.

8.3) Ánh sáng bối cảnh - PHƯƠNG PHÁP:

Thông thường, người thiết kế đang cố gắng để đạt được một loại ánh sáng mềm, phẳng, nhẵn, trên toàn bộ bối cảnh. Bối cảnh có thể được chiếu sáng từ phía trên, chỉ từ phía dưới, hay từ cả trên và dưới cùng một lúc. Cyclorama (màn vây) thường được chiếu sáng với ánh sáng ba (3) màu từ trên và dưới. Trong khía cạnh này, nó có thể cung cấp một phạm vi rộng các kỹ xảo như bầu trời động, xử dụng các màu sắc khác nhau từ trên và dưới.

Bối cảnh cũng có thể được chiếu sáng phía trước hay chiếu phía sau bằng máy chiếu hình. Đôi khi, bối cảnh được chiếu với đám mây di chuyển bằng gobos, hay với các vệt, dấu gạch chéo hay các hiệu ứng đối xứng hay không đối xứng khác.

9. Đặc điểm & đặc biệt (FEATURES AND SPECIALS):

9.1) Ánh sáng đặc điểm:

Ánh sáng đặc điểm (hay đặc biệt) là thiết bị ánh sáng được xử dụng cho các ứng dụng rất đặc trưng - hơn so với ánh sáng khu vực diễn xuất và ánh sáng bối cảnh Thông thường chúng được dùng để bổ sung cho ánh sáng khu vực nói chung hay cung cấp các hiệu ứng ánh sáng cụ thể.

Một “đặc biệt' có thể bao gồm một thiết bị có tiêu điểm rõ tập trung vào khuôn mặt của một đồng hồ hay một bức tranh treo trên sân khấu. Điều này có thể cho phép người thiết kế giảm chiếu sáng chung và “đặc điểm” hay thu hút sự chú ý cho bất kỳ đối tượng hay một phần của sân khấu. (Một thủ thuật rẻ tiền, nhưng hiệu quả!)

Điều này cũng thức hiện với các diễn viên. Nếu ba diễn viên, ngồi tại một cái bàn và chiếu sáng mỗi người với một tiêu điểm rõ "đặc biệt", nó sẽ có thể trực quan thay đổi sự chú ý từ một diễn viên này sang diễn viên khác, hay cân bằng tất cả 3 người như nhau. Việc xử dụng các đặc biệt cho các diễn viên cũng bảo đảm cho họ sẽ được chiếu sáng khi cần thiết, vì lý do kịch tính.

9.2) Ánh sáng đặc điểm – THIẾT BỊ:

Đèn phản chiếu hình elip (ER) thường là thiết bị khi lựa chọn cho các đặc điểm và đặc biệt. thiết bị góc hẹp E.R điển hình được xử dụng luồng tỏa 5-20 độ. Những thiết bị này thường được xử dụng với màn trập (framing shutter), tròng mắt (iris), hay với các thiết bị luồng định hình khác - để chỉ cho ánh sáng thoát ra khi cần thiết. Cạnh chùm tia có thể được điều chỉnh từ "cứng" đến "mềm" tùy thuộc vào mục tiêu thiết kế.

Đôi khi chùm tia máy chiếu và đèn PAR loại ”pinspot” này cũng thích hợp để xử dụng cho đặc biệt. Những thiết bị góc hẹp này chỉ có thể cung cấp một chùm tia cạnh mềm, thường là một hình hơi bầu dục. Khi người thiết kế xử dụng đặc biệt cho người biểu diễn, phải có đủ thời gian trong buổi diễn tập ánh sáng để cho phép các diễn viên “tìm ánh sáng của ông ấy” và tự tin rằng ông có thể “trên điểm đánh dấu” mỗi lần diễn. Một diễn viên mà đi ra khỏi đặc biệt cô lập của mình thường làm cho tất cả mọi người nhìn thấy xấu, nên dành thêm thời gian để làm cho đặc biệt thực hiện.

10. Phương pháp bí mật (SECRET):

10.1) Phương pháp bí mật của thiết kế ánh sáng:

Có thể không có một phương pháp cho ánh sáng sân khấu hay có thể không có “quy tắc” cho thiết kế ánh sáng - Tuy nhiên, có "bí mật" cho thiết kế ánh sáng tốt. Bí mật là: KIẾN THỨC (KNOWLEDGE), HIỂU BIẾT (UNDERSTANDING), KINH NGHIỆM (EXPERIENCE), và TRÌNH ĐỘ (PROFICIENCY).

Nhiều thiết kế ánh sáng có thể "thử nghiệm" phương pháp tiếp cận, và chỉ cần cố gắng, không có phương pháp thực tế, hay khái niệm về những gì họ đang cố gắng để đạt được. Đôi khi phương pháp này cho kết quả rực rỡ và ngoại lệ. Nhiều hơn thì thường không có. Thử nghiệm rất quan trọng cho những người thiết kế ánh sáng và tất cả người thiết kế nên thử những điều mới bất cứ khi nào có thể. Đó là thông qua một cách tiếp cận có hệ thống, tuy nhiên các người thiết kế ánh sáng sẽ có thể cung cấp kết quả dự đoán và nhất quán trong bất kỳ số lượng tình huống khác nhau nào.

Người thiết kế phải biết những gì họ đang chiếu sáng và họ muốn chương trình thể hiện ra như thế nào. Người thiết kế phải rất quen thuộc với kịch bản và tất cả yêu cầu về ánh sáng của chương trình. Họ phải xử dụng những phẩm chất của ánh sáng và mục tiêu của ánh sáng sân khấu để cho phép anh ta hình dung đầy đủ, diễn đạt và xác định khái niệm thiết kế và ý định của mình.

Người thiết kế phải có một sự hiểu biết đầy đủ các loại khác nhau của thiết bị đèn, được xử dụng ở các vị trí ánh sáng khác nhau (một mình và kết hợp). Họ phải biết những vị trí ánh sáng trong chương trình FRONTLIGHT, SIDELIGHT, DOWNLIGHT, BACKLIGHT, UPLIGHT và DIAGONA - trong sự kết hợp bất kỳ. Đây là các khối xây dựng của thiết kế ánh sáng và thiết kế theo bản năng phải biết những dùng thiết bị nào và đặt hướng nào. Điều này chỉ đến từ kinh nghiệm.

Người thiết kế cũng phải biết làm thế nào để nhận ra THỰC TẾ (PRACTICALLY) thiết kế của họ trong một nhà hát thực tế hay không gian biểu diễn. Các người thiết kế phải biết chỗ rọi sáng và chi tiết của tất cả các vị trí ánh sáng. Họ phải biết thiết bị nào cần thiết để nhận ra hình ảnh trực quan của chương trình và xử dụng nó. Họ phải biết rất nhiều phương pháp thiết kế có sẵn, (nguồn, điểm nguồn đơn, đa nguồn, v.v) và họ phải chọn phương pháp nào sẽ đáp ứng cả hai tiêu chí thiết kế của mình - và ngân sách.

Thiết kế ánh sáng không phải là một nghệ thuật đơn độc. Người thiết kế phải học cách cộng tác với các thành viên khác của nhóm và đội sản xuất thiết kế. Trong khía cạnh này của người thiết kế “kỹ năng con người -human kill” có thể thực hiện hay phá vỡ toàn bộ thiết kế ánh sáng. Các người thiết kế ánh sáng chuyên nghiệp phải quan tâm với THỦ TỤC (PROCEDURE). Tuy nhiên, họ cũng phải quan tâm đến KẾT QUẢ (RESULT) - và biết làm thế nào để có được nó.

(hết Phần 2...)

Next:    photo next_zps22540f06.png

(Tổng hợp từ nguồn "Lighting Design")

0 comments :

Post a Comment